“Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?”
BÀI THƠ “MÙA XUÂN CHÍN” CỦA HÀN MẶC TỬ
Đọc thơ Hàn Mặc Tử ta luôn thấy một tấm lòng khao khát yêu đời, khao khát sống. Bài thơ “Mùa xuân chín” (1938) được coi là “tiếng thơ thuộc loại trong trẻo nhất của Hàn Mặc Tử”, trong trẻo, song cũng đầy bí ẩn, đau thương.
MÙA XUÂN CHÍN
“Trong làn nắng ửng: khói mơ tan,
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.
Sột soạt gió trêu tà áo biếc,
Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang.
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi;
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi.
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây,
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,
Nghe ra ý vị và thơ ngây.
Khách xa, gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng:
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?”
Mở đầu bài thơ là bức tranh thiên nhiên tươi mới, ngập tràn ánh sáng, ngập tràn sắc xuân. Xuân đang len lỏi vào cảnh vật, trên giàn thiên lý báo xuân về, cây cỏ, thiên nhiên, đất trời, và lòng người như hòa quyện lấy nhau:
“Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang”.
Mùa xuân hiện ra ngập tràn sắc vàng của nắng hoà trong làn sương khói mờ ảo, huyền bí. Sắc vàng ấy càng trở nên rực rỡ với hình ảnh “đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng”. Trong khung cảnh thanh bình, yên ả của muà xuân, bỗng nhà thơ bắt gặp tiếng “sột soạt” của “gió trêu tà áo biếc”, khiến không khí trở nên sôi động, vui tươi, đầy hứng khởi. Từ mái nhà tranh, nhà thơ di chuyển điểm nhìn đến “giàn thiên lí”. Dấu chấm đặt giữa câu thơ như một sự ngập ngừng, ngắt quãng. Bởi đó là khoảnh khắc thi nhân giật mình nhận ra “bóng xuân sang”. Bóng của mùa xuân nhẹ nhàng bước tới như thể đang đứng trước mặt nhà thơ.
Từ điểm nhìn cận cảnh, Hàn Mạc Tử đưa tầm mắt ra xa với cái nhìn viễn cảnh. Không gian mùa xuân được rộng mở với “sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”.
“Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi”
Cỏ như xanh mãi, tươi mãi trong không gian mênh mông, bao la. Mùa xuân bao giờ chẳng có màu xanh cỏ? “Cỏ non xanh tận chân trời” (Nguyễn Du)… Gam màu “xanh tươi” đầy sức sống yên bình ấy cứ “gợn tới trời”, trải dài như không dứt, trải mãi, ngấm vào hồn thơ… Hoà cùng với không khí tươi vui của mùa xuân, ta thấy được cái náo nức trong lòng người:
“Xuân xanh” là một ẩn dụ để chỉ những cô gái trẻ trung, xinh đẹp. Tuổi xuân của họ rực rỡ như mùa xuân của đất trời. Vì vậy, niềm vui của những cô thôn nữ hoà trong không khí mùa xuân chính là tình xuân. Cái ửng của nắng phải chăng chính là đôi má ửng hồng của các cô gái khi “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Niềm vui của họ là tình yêu đôi lứa, là sự gắn kết trong hôn nhân đến bạc đầu. “Mùa xuân chín” không chỉ là tiết trời xuân mà còn là tình xuân. Cái “chín” trong tình yêu chính là kết quả nên vợ nên chồng.
Niềm hạnh phúc của những cô gái được thể hiện trong “tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi”. Tiếng hát ca say sưa của con người như có sức hút, cao vút đến lưng chừng núi thể hiện niềm thiết tha yêu đời mãnh liệt. Dư âm của tiếng hát dường như còn ngập ngừng mà “vắt vẻo lưng chừng núi” tạo nên một âm thanh vang vọng khắp không gian. Xuân tình từ thiên nhiên lây lan, giao ứng với xuân tình trong lòng người, cả hai nhập vào nhau trong cùng một tiếng hát- tiếng hát của những cô thôn nữ mà cũng là tiếng hát của nước mây.
“Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây
Thầm thì với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây”.
Từ âm thanh cao vút, “hổn hển như lời của nước mây” bỗng trở thành những lời thầm thì nhỏ bé:
“Thầm thì với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây”
Đại từ “ai” xuất hiện như “thuyền ai đậu bến sông trăng đó” (Đây thôn Vĩ Dạ) đầy bí ẩn. “Tiếng ca” vốn vang xa khắp núi rừng nay thu lại chỉ dành cho “ai”. Đó có thể là người thương, cũng có thể là với chính bản thân mình. Để rồi, khi tâm tình, sẻ chia, con người có thể lắng nghe được những “ý vị và thơ ngây” trong lòng mình.
Tiếng hát mùa xuân dân dã, tình tứ và đáng yêu, bỗng ngập ngừng như có sự hẫng hụt, băn khoăn:
“Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi”.
“Đám xuân xanh ấy” là các cô thôn nữ đang hát, đang “thầm thì với ai ngồi dưới trúc” kia sẽ chín cùng mùa xuân và sẽ “theo chồng bỏ cuộc chơi”…
Thiên nhiên và lòng người như quyến luyến với mùa xuân, tuổi xuân hồn nhiên đang dần trôi qua. Hàn Mặc Tử như chợt thấy buồn, thấy hẫng hụt, bâng khuâng, như mất mát đi một cái gì khi mùa xuân đang chín…
“Xuân đang tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già” (Xuân Diệu).
Nếu ngày xưa khi đang tuổi xuân thì, nhịp xuân sang cùng bao cô gái ngân nga lời ca, tiếng hát chào mừng, thì giờ đây khi xuân chín, xa rời xuân xanh năm nào, “chị ấy” giờ trở thành một người phụ nữ với bao nỗi lo toan, trách nhiệm với cuộc sống và công việc của người mẹ, người vợ.
Mỗi tiếng thơ thốt lên là cả một bầu trời thương yêu, vừa mang nỗi thương cảm, vừa mang nỗi nhớ mênh mang chốn quê nhà vất vả, gian nan.
Câu thơ cũng mang theo nỗi buồn, niềm nuối tiếc của thi sĩ trước “mùa xuân chín”, bởi “xuân chín” rồi cũng là lúc “xuân tàn”, cái đẹp rồi cũng sẽ tàn phai. “Đám xuân xanh ấy” rồi cũng “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Khi biết cái tuổi xuân tươi đẹp của người thiếu nữ rồi cũng có điểm kết, bỗng dâng lên trong lòng ta một nỗi niềm bâng khuâng, xao xuyến, muốn níu giữ cái hương sắc tươi đẹp của cuộc đời.
Trước “mùa xuân chín”, lòng “khách xa” bỗng trào dâng nỗi nhớ làng quê thân thương. Nhớ làn nắng ửng, nhớ đôi mái nhà tranh, nhớ tà áo biếc và nhớ cả giàn thiên lý. Đó là một không gian làng quê mộc mạc, giản dị, gần gũi mà chan chứa nghĩa tình. Và trong không gian ấy, hình ảnh người chị gánh thóc trở thành trung tâm. “Chị ấy” xuất hiện trong nét đẹp gánh thóc, hoà cùng ánh nắng vàng bên bờ sông trắng… có thể là một người dân lao động bình thường nơi thôn quê, cũng có thể là một người thân quen gần gũi, hoặc cũng có thể là cô người yêu của thi nhân. Ánh nắng xuân lúc này càng trở nên long lanh, lấp lánh hơn trong dòng hồi tưởng của người khách xa quê.
Nếu ở khổ thơ đầu là hình ảnh cỏ cây tươi xanh thì đây, khi muà xuân chín, xuân đã không còn thơ mộng như khi vừa sang nữa, nó mang màu của nỗi tiếc nuối ngậm ngùi, màu của nắng gió thôn quê: “Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”.
“Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”
“Trước mắt chúng ta hiện lên hai bức tranh gần như hoàn toàn đối lập nhau. Một bên: “Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”, còn bên kia: “Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”. Một bên “Bao cô thôn nữ hát trên đồi”, còn bên kia: “Chị ấy năm nay còn gánh thóc”.
Một còn xuân xanh, một đã qua thời tuổi trẻ. Một bên đông đảo vui vẻ, một bên lặng lẽ cô đơn… Mùa xuân ở trên là mùa xuân đang xanh, còn ở dưới là mùa xuân đã chín…
Ở câu gần cuối bài, Hàn Mặc Tử có ý nhấn mạnh chữ “còn”. Trong khi bao cô thôn nữ đang hát hò vui vẻ thì chị ấy “còn” gánh thóc, từ năm này qua năm khác giữa cái nắng “chang chang” như vậy. Và từ hình ảnh chị ấy còn đang gánh thóc, mà thi sĩ ngậm ngùi cho bao cô thôn nữ ở trên…
Đó là quy luật ít ai cưỡng được. Thi sĩ biết vậy mà cứ tiếc thầm cho họ. Và biết đâu cũng như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử cũng tiếc cho cả tuổi xuân của mình… (Mai Văn Hoan)
Câu thơ: “Dọc bờ sông trắng nắng chang chang” được xem là câu thơ thần tình nhất của Hàn Mặc Tử. Ta hay nói sông xanh, sông đỏ, đây nhà thơ nói sông trắng. Nắng đến trắng cả sông thì phải biết nắng gay gắt như thế nào…
Bài thơ “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử có sự hài hoà của sắc xuân, tình xuân đang ở độ tươi đẹp nhất, rạng rỡ nhất, căng tràn nhựa sống nhất, trong sáng, hồn nhiên, rạo rực, say mê, thơ mộng mà thoáng buồn nhất.
Nhà thơ đã mượn bức tranh xuân tươi đẹp, rạo rực, tràn đầy sức sống để bày tỏ cái “xuân chín” trong lòng người. “Chín” trong tình thương, “chín” trong nỗi nhớ về con người, cuộc đời và quê hương. Một tấm lòng khát khao giao cảm với cuộc đời, trân trọng cái đẹp và ý thức nâng niu, giữ gìn những gì tinh tuý, đẹp đẽ của cuộc đời.
“Âm hưởng chủ đạo của bài thơ là một niềm bi cảm, một nỗi buồn xa xót tiếc nuối, thấm thía đến sâu thẳm, nó gợi cho ta chạnh nghĩ về đời người, đời mình, cái nhất thời và cái vĩnh viễn, cái có nghĩa và cái vô nghĩa…”(Văn Giá)
(St và Bs)