(Bài này ngắn nên auto thích vào đề :>> Ngắn z thôi nhưng nhiều cái hay để viết lắm nha )
Thơ ca tử cổ chí kim, đã có biết bao bóng chiều ngả xuống, bao bản nhạc chiều xuyên suốt, bao bức tranh chiều hiện lên qua các con chữ… mà các nghệ sĩ, tao nhân để lại cho di sản văn học dân tộc. Về mặt này, Hồ Chí Minh trong tư cách nhà thơ cũng không phải là một ngoại lệ. Trong tập‘Nhật Kí Trong Tù’, có một buổi chiều với hoàn cảnh thật đặc biệt, nhưng lại được tái hiện rất đỗi bình thường. Đó chính là những dư âm êm ả, vang lên từ tấm lòng rung động đáng trân trọng của Người trong bài thơ ‘Chiều tối’ (Mộ).
Thi phẩm được sáng tác vào cuối thu năm 1942, trên con đường chuyển lao khổ ải từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo. Ở thời điểm chiều tối ấy, những đày đọa ban ngày vẫn chưa qua mà những khó khăn ban đêm sắp đến. Thế nhưng, trong bài thơ của Bác, tuyệt nhiên không có một chữ ‘chiều’ hay ‘tối’, không một chi tiết nói về cảnh tù đày. Ta chỉ thấy hiện lên là một thiên nhiên bát ngát, cao trong, thanh bình êm ả; chỉ có một hồn thơ thư thái, say mê hướng về sự sống, về phía ánh sáng và niềm hạnh phúc trong lao động.
Cảnh chiều tối hiện ra qua những nét vẽ cổ điển của Đường thi, không miêu tả âm thanh mà nghe thật vắng vẻ quạnh hiu, không có màu sắc mà thấy thật thâm u, huyền bí:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không”
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)
Với nét chấm phá quen thuộc, bút pháp lấy động tả tĩnh, lấy điểm gợi diện: cánh chim - chòm mây - bầu trời, tất cả như lắng đọng trong một thiên nhiên u trầm. Không đơn thuần điểm xuyết thời gian, không gian như những vần thơ cổ điển: “Chúng điểu cao phi tận / Cô vân độc khứ nhàn” (Lý Bạch), mà ở đây, Người đặt chữ ‘quyện’ lên đầu câu, như nhìn thấu sự mệt mỏi của cánh chim sau một ngày kiếm sống. Hướng tầm mắt lên phía cánh chim, là hướng tới bầu trời hữu hình - một tín hiệu thẩm mĩ trong thi ca. Thần thái của hai câu thơ nằm ngay trong hai chữ “mạn mạn” vừa mang màu sắc của thơ Đường, vừa bộc lộ cái ung dung của tác giả. Mọi hoạt động dường như chững lại, đám mây lơ lửng, man mác giữa không gian tạo thành độ sâu của khung cảnh. Vốn dĩ, hai chữ ‘thiên’ và ‘không’ đều nói về bầu trời, nhưng nhà thơ lại gắn liền hai từ cùng nghĩa lại với nhau, cực tả cảm giác mênh mang vô tận, nhấn mạnh đến sự vận động cô đơn của chòm mây trôi chậm chạp, lững lờ từ chân trời này sang chân trời khác mà không có điểm dừng. Người đã phá vỡ rào cản khắt khe, tính chất quy phạm của thơ Đường, biến thế giới khách quan trở thành thế giới nội tâm. Dù bị áp giải từ lúc ‘gà gáy một lần đêm chửa tan’, phải hững chịu ‘rát mặt đêm thu trận gió hàn’, nhưng ý chí vượt lên hoàn cảnh cùng ước mong sum họp, khát vọng tự do đã thôi thúc người nghệ sĩ hòa hợp đồng điệu hồn mình với thiên nhiên.
Bức tranh phác họa thiên nhiên giờ đây lại nhường chỗ cho bức tranh sơn mài sắc nét, rực rỡ, đầy tính hội họa về một khung cảnh rất đỗi đời thường:
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.”
(Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết, lò than đã rực hồng.)
Hai câu thơ diễn tả sự vận động thời gian từ lúc chiều tối đến lúc tối hẳn. Cặp mắt của thi nhân đã thôi không ngước mãi về phía bầu trời, mà hướng về mặt đất, để rồi ấn tượng về một xóm núi, về một cô gái xay ngô, một chiếc lò than trong ngôi nhà đơn sơ, giản dị. Với ý thơ khéo léo này, bản dịch tỏ ra bất lực khi sử dụng hai chữ ‘cô em’, đồng thời thêm chữ ‘tối’ vào câu thơ, làm mất mát đi chút ít cái tinh tế của ý thơ và lòng trân trọng của tác giả dành cho con người. Nghệ thuật láy âm, vắt dòng với điệp ngữ “ma bao túc” - “bao túc ma hoàn” gợi lên nhịp làm việc không ngừng nghỉ của người thiếu nữ xóm núi trong vòng quay của động tác xay ngô - song song với dòng lưu chuyển của thời gian đất trời. Người thiếu nữ xuất hiện không hề đơn độc lẻ loi, mà gắn với cộng đồng “sơn thôn” của mình, đó là cách nhìn nhận đặc biệt thường gặp trong thơ Bác:
“Làng xóm ven sông đông đúc thế
Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh” (Giữa đường đáp thuyền đi huyện Ung)
Chính vì tấm lòng hướng về con người, nên trái tim Bác lại rung lên những tiếng thơ đầy nhân ái mỗi lần bắt gặp những hoản cảnh khác nhau. Từ tiếng khóc oa oa của cháu bé trong nhà lao Tân Dương - “Cha trốn không đi lính nước nhà”, hay người thợ phu làm đường (…). Còn trong bài thơ ‘Mộ’, Bác dành tình thương cho người thiếu nữ lao động vất vả. Vòng quay cối xay ngô mang nhịp lao động, là hơi thở của sự sống, là sự vận động thời gian; sâu xa hơn là vòng đời luẩn quẩn của những kiếp người bé nhỏ dưới chế độ Tưởng Giới Thạch.
Tuy bài thơ mở ra với cảnh chiều tối u trầm, song đã khép lại ở hình ảnh ‘lỗ dĩ hồng’. Bút pháp vẽ mây nảy trăng vốn dĩ thường có ở những bậc thi nhân tài xuất như Nguyễn Khuyến, Nguyễn Du, nhưng nay lại được vận dụng đầy khéo léo trong những vần thơ của Bác. Dưới ánh mắt người tù đày, “lô dĩ hồng” là hình ảnh bình dị của đời sống, làm bừng sáng gương mặt của người thiếu nữ, xua đi cái lạnh lẽo ở miền sơn cước. Chữ “hồng” vang lên như một thanh âm trong trẻo giữa núi rừng, mà nhà thơ Hoàng Trung Thông từng có lời nhận xét: “nó sáng bừng lên, nó cản lại, chỉ một chữ thôi với hai mươi bảy chữ khác dẫu nặng đến mấy đi chăng nữa”. Trời càng tối dần, ma lực của màu hồng lại càng phát sáng, làm thay đổi gam màu bức tranh toàn cảnh. Chữ hồng ấy cũng chính là tình thương, là chất thép, là bản lĩnh và trí tuệ của Hồ Chí Minh:
“Người ghét sự chói chang, nhưng chính Người là nguồn ấm nóng
Của vầng hồng đánh dẹp bóng đêm lui.”
Tác phẩm hoàn toàn đảm bảo cấu trúc đặc trưng của một ài thơ tứ tuyệt, nhưng điều đặc biệt, là có sự vận động của tứ thơ: từ bóng tối lan tràn, theo con mắt của người tù mà hướng về phía ánh sáng. Bài thơ là sự kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn giữa phong cách cổ điển và hiện đại, giữa chất thép và chất trữ tình, là sự hòa điệu tuyệt diệu giữa cái nhịp nhàng của thiên nhiên và cuộc sống nhịp nhàng của con người. Nhịp thơ có sự chuyển biến rõ rệt: chậm rãi ở hai dòng đầu và bắt đầu mạnh mẽ hơn ở hai dòng sau, rồi kết thúc nhanh bởi ba chữ ‘lô dĩ hồng’ - nhãn tự và thần sắc của toàn bài thơ. Bài thơ ‘Chiều tối’ đã thể hiện một nét độc đáo trong phong cách thơ Hồ Chí Minh, “luôn luôn có sự vận động hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai” (Nguyễn Đăng Mạnh). Ngọn lửa của con người làm điểm hội tụ, là trung tâm toả ấm nóng và niềm vui ra không gian rộng lớn. Qua đó, người đọc thấy được cảm hứng lãng mạn cách mạng, cùng cái nhìn lạc quan, tươi sáng của người chiến sĩ cộng sản vĩ đại.
❤ _banhmithiu_