(cùng với “Vội Vàng” thì đây là bài thơ, và cũng của 1 nhà thơ mà tui rất rất thích nên bài viết này tôi zô cùng tâm đắc đó ❤ )
Vào những năm 40 của thế kỉ XX, khi mà cái tôi Xuân Diệu, Huy Cận hay các nhà thơ Mới khác vẫn còn đang lạc lối, thì có một tác giả đã tìm được lý tưởng sống cho mình, để rồi cất cánh trở thành con chim đầu đàn trong nền thơ ca Cách mạng. Đó là nhà thơ trữ tình chính trị xuất sắc - Tố Hữu, với bài thơ “Từ ấy” - tác phẩm mà ông coi là “một tâm hồn trong trẻo của tuổi mười tám, đôi mươi đi theo lý tưởng cao đẹp, dám sống, dám đấu tranh”.
“Từ ấy” được sáng tác năm 1938, nằm trong tập thơ cùng tên. Nhan đề bài thơ mang ý nghĩa phiếm định về một mốc thời gian đã qua: 1937, như một tấm bản lề khép mở: khép lại quá khứ mù mịt, bế tắc và mở ra tương lai Cách mạng đầy hi vọng. Trong những buổi ban đầu, chàng thanh niên Tố Hữu lúc bấy giờ dang “bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước”, “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”, thì ánh sáng của lý tưởng Cộng sản đã rọi chiếu tâm hồn nhà thơ, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời ông. Bởi thế, bài thơ là tiếng reo vui của người thanh niên khi bắt gặp lí tưởng cộng sản, để rồi cho ta hiểu thêm về vẻ đẹp tâm hồn nhà thơ Tố Hữu trong buổi đầu đến với Cách mạng.
Mở đầu là tiếng thơ hân hoan, nồng nhiệt của một tâm hồn bắt gặp lẽ sống và lí tưởng:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim.”
Hai tiếng ‘từ ấy’ không chỉ được đặt cho nhan đề, mà nó còn đóng vai trò như một chìa khóa dẫn dắt bài thơ, gợi về thời điểm diễn ra sự chuyến biến mạnh mẽ trong thế giới nội tâm của chru thể trữ tình - thời điểm giác ngộ lí tưởng Cách mạng. Trước dấu mốc ấy, Tố Hữu cảm thấy khô héo xác xơ, cạn kiệt sự sống, nên ông tự ví cuộc đời mình:
“Tôi đã khô như cây sậy bên đường
Đâu dám ước làm hoa thơm trái ngọt
Tôi đã chết, lặng im, như con chim không bao giờ được hót
Một tiếng ca lảnh lót cho đời
Nếu chậm mùa xuân ấy, em ơi!” (‘Một nhành xuân’ - TH)
Cũng giống như những trí thức đương thời khác, khi sống trong cảnh nước mất nhà tan, nhà thơ đứng trước ngã rẽ của cuộc đời: ‘Vẩn vơ theo mãi vòng quanh quẩn / Muốn thoát, than ôi, bước chẳng rời’. Và ở đó, Tố Hữu chọn con đường của chủ nghĩa Cộng sản, với sự nồng ấm của nhiệt huyết cách mạng, như một thứ nắng hạ chói chang. Nếu như mặt trời là thiên thể lớn lao duy nhất ngoài vũ trụ, đem sự sống và ánh sáng cho vạn vật, thì với tác giả, lí tưởng Cách mạng cũng là lí tưởng duy nhất đúng đắn, vĩ đại, đã tái sinh cuộc đời, khai sinh ra tiếng thơ Tố Hữu. Ý thơ làm ta liên tưởng đến sự nghiệp tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc, mà sau này nhà thơ Chế Lan Viên đã ghi lại cảm xúc của Bác trước ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin:
“Kìa mặt trời Nga bừng chói phương Đông
Cây cay đắng đã ra mùa quả ngọt
Người cay đắng đã chia phần hạnh phúc”. (‘Người đi tìm hình của nước’)
Trong bài thơ ‘Từ ấy’, cũng có các động từ mạnh ‘bừng’, ‘chói’, được chọn lọc tinh tế, thể hiện được sự choáng ngợp của tác giả, đồng thời nhấn mạnh về ánh sáng diệu kì, mạnh mẽ của lí tưởng cộng sản, đã xua tan đi màn sương mù của hệ ý thức tiểu tư sản. Nguồn sáng ấy còn gợi lên lòng biết ơn trong Tố Hữu, khiến người thanh niên đối diện với lòng mình, để nhận thấy những chuyển biến mạnh mẽ trong tâm hồn:
“Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.”
Với nghệ thuật so sánh cùng hình ảnh ẩn dụ đầy sinh động, nhà thơ diễn tả niềm vui sướng tột độ khi tìm thấy lẽ sống chân chính của cuộc đời. Hai câu thơ bay bổng, đậm chất lãng mạn, mang cái giọng điệu rất tỉnh mà vẫn say mê rạo rực trước cái lịm ngọt của niềm hạnh phúc mà lí tưởng đem lại: “hồn” người đã trở thành “vườn hoa”, một vườn hoa lá tốt tươi, ngào ngạt hương sắc, rộn ràng tiếng chim ca. Lời thơ là sự phát hiện bất ngờ về một vùng đất mới - nơi sự sống đang sinh sôi nảy nở, nhờ có mặt trời chân lí như đổ ngập ánh nắng, làm tốt tươi một vườn hồn.
Trong âm vang nồng nhiệt của tiếng reo vui phấn khở, khổ thơ thứ hai như một bản quyết tâm thư của người thanh niên cộng sản với nhận thức mới về lẽ sống:
‘Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.’
Tác giả nên tự nguyện “buộc”, gắn bó đời mình với ‘mọi người’. Đó là những người dân lao động thấp cổ bé họng, bị rẻ khinh, miệt thị, đã từng xuất hiện trong biết bao trang thơ Tố Hữu, như lão đầy tớ, như những em bé đi ở, như chị vú em, hay cô gái trên dòng sông Hương Giang… Tâm hồn nhà thơ “trang trải” rộng khắp ‘trăm nơi’, mang sự đồng cảm sẻ chia tuyệt đối, dành trọn tất cả những gì mình có, và dường như còn day day cảm giác mắc nợ với nhân dân, với cuộc đời. ‘Trăm nơi’ ở đây đâu chỉ trải dọc trên mảnh đất hình chữ S, mà nó không bị giới hạn bởi quốc gia, giai cấp, lãnh thổ. Ta từng nghe tiếng lòng đau đớn của nhà thơ khi tái hiện một thảm họa nhân đạo trong cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, về những người mẹ, người vợ đã chết một cách bi thương ở Nhật Bản:
‘ Nhật hoàng! Nhật hoàng!
Trên ngai vàng chễm chệ
Uất hận phù tang
Đã vang cùng sóng bể!’. (“Đông Kinh nhuộm máu”)
Có thể thấy, lẽ sống mới của Tố Hữu vừa kế thừa lí tưởng nhân nghĩa trong truyền thống thơ ca dân tộc, lại vừa mang tinh thần của thời đại Cách mạng. Nhà thơ tìm thấy sức mạnh của chính mình trong sự gắn kết sâu sắc với muôn kiếp người khổ đau, gắn kết từ trong chiều sâu tâm hồn: ‘Để hồn tôi với bao hồn khổ’. Cuối cùng, cái đích của những mong muốn ấy chính là để ‘mạnh khối đời’ - xây dựng và làm vững chắc khối thống nhất toàn dân, cùng chéo lái con thuyền đất nước đến với bến bờ độc lập, tự do. Đi từ cái tôi cá nhân đến cái ta chung rộng lớn, Tố Hữu đã vượt lên hạn chế của hệ tư tưởng tiểu tư sản, tìm thấy lẽ sống lớn lao cho mình.
Khi nhận thức về lẽ sống được rộng mở và sâu sắc hơn, tình cảm của Tố Hữu cũng trở nên lớn lao hơn:
“Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ.”
Khổ thơ vang lên âm hưởng của xúc cảm mạnh mẽ, quyết tâm nhờ việc sử dụng hàng loạt đại từ nhân xưng ‘con’, ‘em’, ‘anh’, kết hợp với điệp từ ‘là’ cùng số từ ‘vạn’ được nhắc lại ba lần. Tác giả khẳng định tình cảm gắn bó ruột thịt với nhân dân rộng lớn. Trong thời kì chiến tranh, vạn ngôi nhà, vạn người mẹ đều coi anh bộ đội cụ Hồ là người con đáng quý, cần được bảo vệ, chở che mỗi lần hiểm nguy, mà bao thế hệ người Việt Nam đã từng biết đến qua những câu chuyện lịch sử, qua những lời hát đầy xúc động trong tác phẩm ‘Huyền thoại mẹ’ của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: “Mẹ về đứng dưới mưa/ Che từng căn hầm nhỏ/ Xóa sạch vết con về/ Mẹ ngồi với cơn mưa”, hay qua những câu thơ quen thuộc trong bài “Bầm ơi” của Tố Hữu:
“Con đi xa cũng như gần
Anh em đồng chí quây quần là con
Bầm yêu con, yêu luôn đồng chí
Bầm quý con, bầm quý anh em”
Đã là con của những người mẹ khang chiến, thì Tố Hữu cũng nhận làm em của những “kiếp phôi pha”, muốn kế tục con đường của các bậc tiền nhân - những người dãi gió dầm mưa, hi sinh mồ hôi và sương máu của mình để đưa đất nước qua dặm dài lịch sử. Lời thơ đặc biệt xót xa khi nói về “vạn đầu em nhỏ”, “không áo cơm cù bất cù bơ”, tựa con chim non rũ cánh đi tìm tổ bơ vơ, tựa cánh hoa yếu ớt dạt trôi theo cơn sóng cuồn cuộn của cuộc đời… Nhà thơ dường như cũng sẵn sàng bảo bọc và chở che những số phận nhỏ bé ấy, sẵn sàng hi sinh để làm điểm tựa cho thế hệ mai sau.
Với ngôn ngữ thơ bình thường giản dị nhưng lại được phả vào nội dung Cách mạng, bài thơ “Từ ấy” trở thành tiêu biểu cho bút pháp lãng mạn cách mạng trong giai đoạn sáng tác đầu tiên của Tố Hữu. Cảm nhận được mạch ngầm của cảm xúc tuôn trào trong từng vần thơ ấy, Xuân Diệu đã dành hết lời khen ngợi: “Thơ của chàng thanh niên Tố Hữu khi ấy từ trái tim vọt ra cũng như thơ của chúng tôi, cũng lãng mạn như thể chúng tôi, nhưng là thứ lãng mạn khác có nhiều máu huyết hơn, thơ chúng tôi chỉ đập cho mở cửa trời nhưng thơ Tố Hữu thì mới có chìa khóa: cách mạng, giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho người lao khổ”.
Bài “Từ ấy” là một nốt ngân cao vút đánh dấu mốc son quan trọng trong cuộc đời tác giả, như hồi chuông đánh thức lớp thanh niên đương thời. Ngay từ buổi đầu đến với chủ nghĩa cộng sản, Tố Hữu đã vượt lên trên tình cảm riêng tư, rộng mở thành tình cảm giai cấp - một tình cảm lớn, xuyên suốt đời thơ Tố Hữu, cũng là cơ sở của tình đồng bào, đồng chí, tình quân dân…, mà cội nguồn của nó chính là truyền thống nhân đạo cao đẹp của dân tộc. Vượt thời gian, sau hơn nửa thế kỉ ra đời, “Từ ấy” vẫn tươi xanh chất trữ tình cách mạng, tạo được sự đồng cảm, mến mộ của nhiều thế hệ yêu thích thơ Tố Hữu.
Link nội dung: https://hauionline.edu.vn/phan-tich-bai-tho-tu-ay-a104449.html