<*Bài này đã khó rồi mà hình tượng người lái đò còn khó hơn khi chủ yếu mọi người thường tập trung vào hình tượng con sông*>
Hành trình sáng tác của Nguyễn Tuân giống như cuộc đời chim phượng hoàng lửa trong truyền thuyết, cứ năm trăm năm lại tự bốc cháy, để rồi hồi sinh từ đống tro tàn và trở nên trẻ trung, lộng lẫy hơn trước. Nếu như Huy Cận đi đến vùng biển Quảng Ninh để viết nên “Trời mỗi ngày lại sáng”, nếu như nhà văn Nguyễn Khải lên nông trường Điện Biên để có tập truyện ngắn “Mùa Lạc”, thì năm 1958, Nguyễn Tuân cũng tìm được cho văn chương của mình một con đường để hồi sinh: vẻ đẹp của con người lao động và chiến đấu. “Người lái đò sông Đà” chính là đứa con tinh thần đã góp phần đánh dấu bước chuyển mình của văn Nguyễn Tuân trong giai đoạn ấy. <…>
Năm 1958, nhận quyết định của hội nhà văn, Nguyễn Tuân cùng Thanh Tịnh, Lưu Quang Thuận và Văn Cao lên Tây Bắc. “Người lái đò sông Đà” được rút ra từ tập tùy bút “Sông Đà” (XB năm 1960), là thành quả nghệ thuật tràn đầy cảm hứng lãng mạn, trong sáng từ chuyến đi thực tế dài ngày đầy gian khổ. Nguyễn Tuân bắt gặp những người lao động trong ánh sáng của thời đại mới đang từng ngày từng giờ hồi sinh mảnh đất Tây Bắc. Họ là chiến sĩ bộ đội biên phòng, là người cán bộ địa chất, là hàng chục nghìn công nhân mở đường đang treo mình trên vách núi đá, trải dài hàng trăm cây số… Họ chính là “chất vàng mười đã qua thử lửa” của miền Tây tổ quốc. Tác phẩm được viết theo thể tùy bút - một thể văn thiên về ghi chép mà Nguyễn Tuân từng coi là “tùy theo bút mà viết”. “NLĐSĐ” ca ngợi vẻ đẹp của sông Đà vừa hung bạo, dữ dội, vừa rất đỗi thơ mộng trữ tình, cùng với hình tượng người lái đò trí dũng, tài hoa, nghệ sĩ. Qua đó, nhà văn bày tỏ tình yêu và niềm tự hào dành cho giang sơn gấm vóc, cho con người lao động mới.
Tác phẩm mở đầu với câu đề từ tưởng chừng như dễ bị lãng quên, song nó lại là chiếc chìa khóa quan trọng để mở ra chiếc giương chứa đựng giá trị của tác phẩm: “Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông”. Câu nói này của một nhà thơ Ba Lan, có cấu trúc như một lời cảm thán. Đó là tiếng hát vang xưa từ những người Thái, người Mèo sinh sống ven sông. Khi thực dân Pháp xâm lược, họ đã phải rời bỏ dòng sông để trú ngụ ở nơi núi cao hẻo lánh. Năm 1954, hòa bình lập lại, đồng bào trở về với đôi bờ sóng nước, cuộc sống sinh hoạt lại tươi vui với lời ca điệu hát rộn ràng. Có thể nói, chính thiên tùy bút này cũng là một dòng sông lấp lánh của thế giới văn chương. Sâu xa hơn, tiếng hát là một mã khóa của nghệ thuật, còn dòng sông thì tượng trưng cho cuộc đời, và như Bec-tôn Brếch từng khẳng định: “Tất cả mọi nghệ thuật đều phục vụ cho một nghệ thuật vĩ đại nhất là nghệ thuật sống trên Trái Đất”. Hiện thực là ngọn nguồn sáng tạo của văn chương, vì thế, Nguyễn Tuân đã thực sự từ bỏ cái tôi kiêu bạc, ngông nghênh, bất hòa với xã hội để hòa nhập vào cuộc đời mới đầy tin tưởng, nên NLĐSĐ thể hiện một độ chín mới trong ngòi bút ông. Trước kia, văn học lãng mạn quay lưng lại với hiện thực thì giờ đây văn học phải trở về với hiện thực, điều đó tạo ra chân trời mới trên hành trình sáng tác của rất nhiều nhà văn đương thời khác. Đó là những năm tháng mà Chế Lan Viên xúc động viết thư gửi Tế Hanh rằng:
“Xưa phù du mà nay đã phù sa
Xưa bay đi mà nay không trôi mất
Cho đến được… lúa vàng đất mật
Phải trên lòng bao trận gió mưa qua
Là một nhà văn tài hoa, am tường về điện ảnh, Nguyễn Tuân đã dày công tạc nên một bức nền lí tưởng, mở đuờng cho sự xuất hiện của nhân vật ông lái đò:bức tranh con sông Đà dữ dội. Đó là một khung nền âm u, hiểm trở, với bãi đã cao vút, “đúng chính ngọ mới thấy mặt trời”, “giữa mùa hè mà thấy lạnh”. Con sông làm người ta ghê rợn với những hút nước “như cửa cống cái bị sặc”, “kêu ặc ặc như ai rót dầu sôi vào”, có thể nuốt chửng những con thuyền đi qua nó. Thác sông Đà hiện ra cũng không kém phần dữ dội. Ở xa thì lúc giọng oán trách van xin, khi thì giọng gằn lên chế nhạo, lại có khi như tiếng hàng trăm con trâu mộng lồng lên trong “rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa”. Nước với lửa được biết đến là cặp đôi trái ngược nhau nhưng trong trường liên tưởng của mình, Nguyễn Tuân lại so sánh sự dữ dội của nước bằng sự bùng cháy của lửa tạo nên một hiệu quả thẩm mỹ đến bất ngờ. Còn ở gần, thác đá tỏ ra thật nguy hiểm với những con quỷ đá mặt nhăn nhúm, ngỗ ngược. Ở con sông Đà này, ta có cảm giác tất cả thế lực tự nhiên đều cấu kết với nhau để hãm hại con người, phá tan những chiếc thuyền vô tình đi ngang. Hẳn rằng vì thế mà tác giả đã hạ bút:“Con sông Đà mang diện mạo và tâm địa của một thứ kẻ thù số một”. Qua ngòi bút Nguyễn Tuân, con sông Đà hiện lên như một thứ thuỷ quái với sức mạnh vô biên, bạo liệt, hoang dại, đồng thơi cũng nham hiểm và tàn nhẫn vô cùng.
Chính bức nền ấy, con sông Đà ấy đã tôi luyện lên một nhân vật trung tâm cho riêng mình. Đó là ông lái đò Lai Châu khoảng 70 tuổi, mang chân dung ngoại hình toát lên vẻ đẹp rắn rỏi và khỏe khoắn. Ngòi bút của Nguyễn Tuân bỗng trở thành một công cụ điêu khắc: “cái đầu bạc quắc thước ấy đặt trên một thân hình cao to gọn quánh như chất sừng, chất mun”. Ông lái đò còn mang một đôi mắt nhìn xa trông rộng, vượt qua những ghềnh thác sông Đà, đầy sức mạnh nội lực. Giọng chỉ huy của ông tỉnh táo vang lên giữa bao luồng sóng dữ , “ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh”. Trên ngực và bả vai người lái đò có những “khoanh củ nâu” - dấu tích chai sần của hơn một trăm lần vượt thác leo ghềnh, chiến đấu với sóng dữ sông Đà mà Nguyễn Tuân sáng tạo gọi là “thứ huân chương lao động siêu hạng”, là “đồng tiền tụ máu”. Qua đó, người đọc thấy thấp thoáng hình ảnh của người lao động có tự do trên chiến trường ghềnh thác sông Đà.
Bằng sự quả cảm, trí dũng của mình, ông lái đò như một người nhạc trưởng đang viết nên bản hùng ca vượt thác khi đối mặt với các trùng vi thạch trận. Thạch trận đầu tiên“nhiều đá lắm nước, bốn của từ chỉ có một cửa sinh nằm ở tả ngạn”. “Nước hò la áp đảo”, “đánh đòn lung, đòn tỉa, đòn âm, cả những đòn độc hiểm nhất”. Ông lái đò “cố nén vết thương”, “mặt méo bệch đi” nhưng vẫn tỉnh táo chỉ huy sáu cái mái cheo vượt qua thạch trận. Người thủy binh đầy lí trí và gan góc, không chịu bỏ cuộc mà quyết chế ngự thiên nhiên. Để rồi, ông lái đò chuyển từ thế thủ sang thế công trong trùng vi thứ hai. Lúc này, chiến trường vẫn vẫn mênh mông đá nước, nhưng cửa sinh lại nằm ở hữu ngạn. Chỉ bằng mắt thường mà ông nhớ như đóng đinh vào tất cả những luồng nước, con thác, nắm chắc mọi binh pháp của thần sông thần đá.Trước sự khiêu khích ngổ ngáo của bọn đá tướng lởm chởm, ông lạnh lùng không đáp trả mà “tả xung hữu đột” giữa các vòng vây, khi thì ông điều khiển thuyền vượt qua, khi thì chặt đôi tiêu diệt, lúc lại “đè sấn tới”. Như một vị tướng can trường, người lái đò ghì cương lái, “nắm chặt lấy được cái bờm sóng”,“lái miết một đuờng chéo về phía cửa đá ấy”. Đây là những câu văn sinh động, điêu luyện và uyên bác của Nguyễn Tuân, với những góc lia đa dạng, đầy táo bạo của nghệ thuật điện ảnh. Cho nên, áng văn nhưchiếu lên trước mắt ta những chuỗi hình ảnh kịch tính, sống động và thu hút lạ kì.Đến thạch trận cuối cùng, cửa sinh nằm ở giữa hàng hộ vệ đá. Ông cho thuyền lao thẳng, vút qua “chiếc cổng đá, cảnh mở cánh khép”. Câu văn nhịp nhàng, gấp gáp, mau lẹ, như nhịp động tác của con người. Ở đây, một cách quyết đoán và bản lĩnh, ông lái đò đã sử dụng chiến thuật đánh áp đảo, đánh nhanh thắng nhanh. Phép so sánh chiếc thuyền với “mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước” của Nguyễn Tuân vừa độc đáo, nghệ thuật,song vừa rất chân thực.
Khác với phẩm chất của một vị dũng tướng oai hùng, người lái đó còn mang dòng máu tài hoa, nghệ sĩ. Điều đó được thể hiện rõ qua những hành động khéo léo, chuẩn xác. Khi bọn đá tượng nhổm dậy và vồ lấy chiếc thuyền, trước cả một tập đoàn cửa tử, ông lái đò “vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”. Ông đã khiến công việc chèo đò vượt thác giống như một bộ môn nghệ thuật thực thụ, còn ông là một người nghệ sĩ đang huấn luyện con thuyền tự động lái được, lượn được, tạo nên một màn biểu diễn mĩ mãn. Vào cái khoảnh khắc mà tất cả kí ức về một buổi vượt thác cực nhọc “tan xèo xèo trong trí nhớ”, ông lái đò cùng mọi người nghỉ ngơi, họ chỉ “bàn tán về cá anh vũ cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra đầy tràn ruộng”. Tuyệt nhiên, họ không nhắc đến những hiểm nguy vừa qua, xem đó như một chuyện bình thường để vun đắp cho cuộc sống hàng ngày.Đó là một phong thái sống ung dung, bình thản, vui đời đáng ngưỡng mộ. Dù phải thường xuyên giành giật sự sống từ tay Thần Chết đang trú ngụ trong sóng nước Đà giang, những người chèo đò luôn tự hào về sự giàu có và hào phóng của con sông quê hương xứ sở. Họ cũng biết ơn dòng sông, như những ngư dân đánh cá ở ngôi làng của Tế Hanh luôn biết ơn biển cả bao la, trù phú:
“Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về.
“Nhờ ơn trời, biển lặng cá đầy ghe”,
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.”
Nguyễn Tuân không gọi người lái đò bằng tên cụ thể, bởi người lái đò ấy đã hoà vào lực lượng lao động cần mẫn của miền Tây Bắc, trở thành “chất vàng mười” quý báu của Tổ quốc.
Với những thủ pháp nghệ thuật miêu tả độc đáo, với sự am hiểu tường tận về nhiều lĩnh vực như điện ảnh, đấu vật, quân sự, địa lí và văn học, thiên tùy bút “NLĐSĐ” góp phần mở mang tri thức cho người đọc, hoàn thành xuất sắc một trong những sứ mệnh cao cả của văn chương: trở thành cuốn sách giáo khoa của đời sống. Các câu văn co duỗi nhịp nhàng như có khớp nối, đã làm nên hình hài, sức vóc đẹp đẽ, sống động cho hình tượng ông lái đò.Dòng thời gian là người bạn nghiệt ngã của trí nhớ và những người hay hoài niệm… Thuận theo dòng chảy vô thuỷ vô chung của nó, tất cả như mờ dần, nhoà dần, mất hút vào quên lãng như chiếc lá tịnh lại nơi cội cây. Nhưng chắc chắn rằng, nhiều thế hệ người đọc sẽ không bao giờ quên hình tượng ông lái đò tài hoa, trí dũng và một Nguyễn Tuân tài hoa, uyên bác. Bởi lẽ, chính sức sống nội tại mãnh liệt của hình tượng, và một phần tài năng xây dựng hình tượng văn học của Nguyễn Tuân đã minh chứng cho sức mạnh diệu kì của văn chương nghệ thuật: “Nghệ thuật nằm ngoài sự băng hoại của thời gian, chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”(Sedrin).
<3_banhmithiu_
Link nội dung: https://hauionline.edu.vn/nguoi-lai-do-song-da-ong-lai-do-a104893.html