Cần cố gắng nhiều hơn - Ông nhìn nhận thế nào khi 2 năm gần đây, Việt Nam liên tiếp có cơ sở GDĐH lọt vào các bảng xếp hạng quốc tế uy tín trong khu vực và quốc tế? - Tôi cho rằng, đây là một tín hiệu đáng mừng cho hệ thống ĐH Việt Nam. Như vậy, một số ĐH của Việt Nam cũng đã được nhận biết và được xếp hạng trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, nếu so về tỷ lệ các ĐH trên tổng số ĐH của Việt Nam được xếp hạng kết quả sẽ rất khiêm tốn. Theo thống kê của Bộ GD&ĐT, Việt Nam có 235 ĐH và vừa rồi chúng ta có 8 ĐH được QS xếp hạng châu Á năm 2020, và tỷ lệ chỉ có 3,4%. Trong khi đó, láng giềng của chúng ta là Malaysia có 61 ĐH (theo Bộ ĐH Malaysia) nhưng họ có tới 29 ĐH được QS châu Á xếp hạng, chiếm 47,5%. Đây là một tỷ lệ rất cao so với Việt Nam. Và nếu theo Hệ thống xếp hạng ARWU 2019, Việt Nam chỉ có duy nhất Trường ĐH Tôn Đức Thắng là đại diện trong tốp 1.000, chiếm tỷ lệ 0,42%; Malaysia có tới 8,1% được AWRU xếp hạng và thuộc tốp 400 - 800... Những thông tin trên cho thấy, hệ thống ĐH Việt Nam còn phải cố gắng nhiều hơn nữa mới có thể theo kịp các ĐH trong khu vực, và cũng cần lưu ý là chúng ta “chạy” thì họ có thể “chạy” rất nhanh so với chúng ta. - Ngoài các cơ sở giáo dục ĐH lớn, có uy tín lâu năm, trong danh sách xếp hạng quốc tế bắt đầu xuất hiện tên tuổi của các cơ sở giáo dục ĐH ngoài công lập. Ông đánh giá thế nào về điều này? - Tôi cho rằng, đó là điều đáng mừng và đáng trân trọng, bởi lẽ Việt Nam hiện đang có 27,6% ĐH ngoài công lập. Hơn nữa, khi đánh giá các ĐH, chúng ta nên tập trung vào chất lượng bằng thước đo cụ thể, chứ không nhất thiết phải quan tâm nhiều về loại hình. Thực tế, các ĐH công lập có nhiều thuận lợi hơn và lẽ ra họ phải được xếp hạng và hạng phải cao hơn. Một ĐH ngoài công lập, nghĩa là phải tự thu, tự chi và còn phải đóng thuế theo quy định, nhưng lại hiệu quả đã tiết kiệm rất lớn cho ngân sách Nhà nước. Thông thường, các tổ chức xếp hạng và kiểm định có uy tín ít khi phân biệt công lập hay ngoài công lập, mà họ đánh giá thông qua những tiêu chí cụ thể về học thuật và nghiên cứu. Từ đó cho thấy, cuộc cạnh tranh giữa các trường ĐH ở Việt Nam, bất kể loại hình nào, từng bước sẽ lành mạnh hơn, công bằng hơn. Và đây sẽ là áp lực rất lớn cho những trường ĐH vẫn còn sống nhờ vào bầu sữa ngân sách. - Đề án nâng cao chất lượng GDĐH giai đoạn 2019 - 2025 đặt ra mục tiêu: Có ít nhất 2 cơ sở GDĐH được xếp hạng trong số 100 trường ĐH tốt nhất châu Á, 10 cơ sở GDĐH được xếp hạng trong số 400 trường ĐH tốt nhất châu Á. Thực tế diễn tiến trong thời gian qua, theo ông mục tiêu này có đạt được? - Việc đặt mục tiêu như thế là cần thiết. Nhưng so với quy mô của ĐH Việt Nam mục tiêu đó còn là khiêm tốn. Hiện nay, chúng ta đã có 8 ĐH được vào top châu Á, nên tới năm 2025, tôi nghĩ mục tiêu tăng lên 10 là hoàn toàn khả thi. Và mục tiêu có ít nhất 2 ĐH được vào top 100 của châu Á cũng có thể thực hiện được. Tuy nhiên, việc vào top 100 nghĩa là phải loại ít nhất 2 ĐH hiện có trong top 100 ra khỏi top này; việc này cần sự nỗ lực rất lớn vì nói chung những ĐH trong top 100 châu Á là rất uy tín. TS Lê Văn Út Yếu tố quyết định sức cạnh tranh của các trường ĐH - Theo kết quả mới nhất của QS châu Á, so với năm trước có trường trụ hạng, nhưng cũng có trường tụt hạng. Theo ông, giải pháp gì để giáo dục ĐH Việt Nam có mặt trên các bảng xếp hạng quốc tế một cách thực chất, từ đó tác động trở lại để nâng cao chất lượng giáo dục ĐH trong nước? - Như tôi đã nói ở trên, xếp hạng ĐH giống như một cuộc chạy đua, mình chạy thì người ta cũng chạy và có khi chạy nhanh hơn mình. Do đó, được vào các bảng xếp hạng đã khó và việc duy trì cũng như tăng hạng càng khó hơn. Thực tế, có trường ĐH giảm hạng hoặc tăng hạng thì cũng là bình thường. Để thực hiện thành công các mục tiêu trong Đề án nâng cao chất lượng GDĐH giai đoạn 2019 - 2025, tôi cho rằng các cơ quan hữu quan phải tạo điều kiện thông thoáng hơn nữa cho các cơ sở GDĐH. Trước đây, có lẽ chúng ta rất khó khăn về tài chính; nhưng trong bối cảnh hiện tại vấn đề mà các trường ĐH gặp phải là vướng cơ chế. Những chủ trương, nghị quyết của Trung ương rất phù hợp với xu hướng phát triển chung và dù đã cụ thể hóa thành luật nhưng khi triển khai xuống lại vướng quy định của các cơ quan chủ quản, đặc biệt là về vấn đề tự chủ ĐH. Ngoài ra, chúng ta cũng cần thay đổi quan điểm trong cách đánh giá các cơ sở GD ĐH. Đây có thể nói là yếu tố quyết định cho sự phát triển bền vững. Cách làm dễ nhất là chúng ta nên vận dụng các tiêu chí xếp hạng, kiểm định ĐH vào việc xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp cho các trường ĐH Việt Nam. Tiêu biểu là bộ máy quản trị ĐH, việc bổ nhiệm các chức vụ chuyên môn và đánh giá năng lực nghiên cứu tại các trường ĐH; các yếu tố này có thể nói là quyết định sức cạnh tranh của các trường ĐH trong khu vực và trên thế giới. Việc lựa chọn nhân sự quản trị tại các trường ĐH Việt Nam bị chi phối bởi nhiều tiêu chí mang tính hình thức, không liên quan gì đến quản trị ĐH. Ban Chấp hành Trung ương đã có nghị quyết hướng tới xem hiệu trưởng các trường ĐH là các CEO và đây có thể nói là một cách tiếp cận phù hợp thông lệ quốc tế theo hướng hiệu quả. Ngoài ra, chúng ta phải xem lại việc đánh giá thành tựu nghiên cứu khoa học tại các trường ĐH, bởi nghiên cứu khoa học quyết định chất lượng và đẳng cấp các trường ĐH. Trong thời gian dài, việc đánh giá thành tựu này không phù hợp với thông lệ quốc tế, chúng ta không có định chuẩn một cách đúng nghĩa cho các ấn phẩm khoa học theo từng loại hình từ cơ bản, ứng dụng và chuyển giao. Hiện nay, các trường ĐH muốn nâng đẳng cấp thì phải nâng chất nghiên cứu khoa học thông qua việc công bố kết quả nghiên cứu trên các tạp chí ISI/Scopus (thuộc loại uy tín của thế giới), nhưng những mẫu báo cáo thì lại yêu cầu trả lời có bao nhiêu bài báo trong nước, bao nhiêu bài báo quốc tế một cách rất mơ hồ. - Xin cảm ơn ông! Có thể nói, việc thay đổi cơ chế chính sách đối với ĐH mang tính chất quyết định. Trong thời gian qua, một số trường ĐH đã được giao quyền tự chủ và đã mang lại kết quả rất đáng ghi nhận. Điều này cho thấy, việc tự chủ ĐH ở Việt Nam cần được tạo điều kiện nhiều hơn nữa. Hiếu Nguyễn (Thực hiện) Diễn đàn SEO HAUIOnline.edu.vn .